Billboard
ADS_Top_Right
  • google.com, pub-4530016804051003, DIRECT, f08c47fec0942fa0
Tiêu điểm

Biến cô gái bình thường thành nữ thái giám

06:45:44 15/05/2013
Để biến người con gái bình thường thành nữ thái giám, một phương pháp vô cùng tàn bạo đã được tiến hành: Người ta dùng gậy nhỏ đập vào bụng người phụ nữ để cho dạ con sa xuống, không thể thụ thai, mang thai và sinh đẻ được. Từ truyền thống hoạn quan Chữ Hán, có hơn ba mươi từ ngữ dùng để chỉ hoạn quan, nên thường giải thích hoạn quan là thái giám. Nhưng kỳ thực, khái niệm về hai từ này có chỗ khác biệt. Mới đầu, hoạn quan không nhất thiết phải là người bị thiến. Trong lịch sử Trung Quốc cổ xưa đã có hoạn quan. "Hoạn quan" chỉ là danh xưng chỉ chung những quan viên phục dịch, hầu hạ hoàng đế và gia tộc trong hoàng cung. Từ thời Tây Chu đã xuất hiện hoạn quan và được gọi là tự nhân, hoặc hạng nhân, yêm doãn, nội tiểu thần. Đến thời Chiến Quốc, nước Triệu có Hoạn giả lệnh coi về hoạn quan. Nước Tần có hoạn quan đảm nhận chức Xa phủ lệnh. Sau khi Tần thống nhất Trung Nguyên, hoạn quan có người làm đến Thừa tướng, gọi là Trung thừa lệnh. Thời Tây Hán có những hoạn quan đảm nhận các chức Hoàng môn lệnh, Dịch đình lệnh. Tượng nữ thái giám Cho đến đầu đời nhà Đông Hán, khi Lưu Tú quang phục lại Hán thất, mới ban lệnh hoạn quan tất yếu phải là người đàn ông bị thiến. Từ ngữ "thái giám" xuất hiện sớm nhất vào đời Đường Cao Tông Lý Trị năm Long Sóc nhị niên, tức năm 662, khi đem thay đổi danh xưng "Điện trung tỉnh", cơ cấu chuyên lo việc xa giá, y phục trong hoàng cung thành "Trung ngự phủ", và cải "Giám thành trung ngự" thành "thái giám" và "thiếu giám". Đến đầu đời nhà Minh thiết lập "Nhị thập tứ nha môn", mỗi nha môn đặt ra một thái giám giữ ấn tín phục dịch hoàng đế cùng gia thuộc, và người được giữ chức thái giám tất yếu phải là hoạn quan. Từ đấy, "thái giám" thành danh xưng chuyên chỉ hoạn quan. Đến giữa thời kỳ nhà Minh, quyền thế của thái giám được mở rộng thêm ra. Thái giám có quyền làm sứ giả, trông coi quân đội, coi xét quan lại, dân tình nên trở thành lộng quyền. Đến đời nhà Thanh, xét thấy sự chuyên quyền và tệ hại của thái giám mới đặt ra chức "Tổng quản Thái giám" làm thủ lãnh, lệ thuộc vào "Nội vụ phủ" và giới hạn tước vị đến "tứ phẩm" để nhằm làm giảm quyền lực của thái giám. Theo các nhà nghiên cứu, nguồn gốc ra đời hoạn quan ở Trung Quốc có ba nguyên nhân chủ yếu. Thứ nhất, hoạn quan là những tội phạm, tù binh hoặc phản nghịch bị cắt sinh thực khí. Thư hai, hoạn quan là cống phẩm của địa phương tiến cống vào cung đình. Thứ ba, đó là những người đàn ông tự nguyện xin thiến làm hoạn quan để mưu cầu phú quý. Loại trừ những người bị khiếm khuyết khi sinh ra, đa phần hoạn quan đều phải trải qua những thủ thuật hết sức đau đớn gọi là tịnh thân. Việc tịnh thân được diễn ra cụ thể như thế nào, sử sách Trung Quốc xưa ghi lại cũng bất nhất. Nhưng nhìn chung, để từ một nam giới bình thường thành một quan hoạn, người đàn ông phải trải qua những nỗi đau đến tàn khốc bậc nhất trong cuộc đời của mình. Lịch sử Trung Quốc đã ghi lại một số cách thức để tạo ra một hoạn quan cho triều đình. Cách thức đầu tiên được gọi với tên “cắt tận gốc”. Thực hiện phương pháp này, người ta dùng dao sắc hoặc một vật dụng kim loại như kiếm hoặc rìu cắt đứt tận gốc dương vật của nam giới, bao gồm cả phần âm kinh và dịch hoàn. Cách thức này được miêu tả như một hình thức vô cùng tàn bạo. Những người sau khi sử dụng phương pháp này đều rất đau đớn, thậm chí có thể bị hôn mê kéo dài. Cách thứ hai mà người Trung Quốc sử dụng đó là chỉ cắt bỏ dịch hoàn bằng một con dao sắc. Cách thức này nhân đạo ở chỗ, sẽ không cắt hết toàn bộ cơ quan sinh dục. Mặc dù vậy những người bị cắt bỏ dịch hoàn cũng sẽ không thể quan hệ tình dục và có con. Ngoài hai phương pháp tịnh thân trên, có nhiều gia đình chuẩn bị việc tịnh thân cho con mình tương lai sẽ làm thái giám ngay từ khi còn nhỏ. Một bà mụ sẽ được gia đình thuê để có thể chăm sóc đặc biệt cho đứa trẻ ngay từ khi còn nằm trong nôi. Mỗi ngày ba lần, bà mụ sẽ nắn bóp dịch hoàn đứa trẻ. Lực bóp cũng tăng thêm khi đứa trẻ đó lớn. Chính vì thế cơ quan sinh dục của đứa bé dần dần bị hủy hoại. Khi lớn lên, không những mất khả năng sinh dục mà dương vật còn teo dần khiến đứa trẻ có nhiều nữ tính, không có yết hầu, hai vú nhô cao, mông nở, giọng nói lanh lảnh, dáng điệu ẻo lả và trở thành “ái nam, ái nữ”. Theo sách “Mạt đại thái giám bí văn” còn liệt kê một phương pháp thiến nữa là "thằng hệ pháp", tức dùng dây cột chặt dịch hoàn của đứa bé, lâu dần thực khí mất công năng, bị chết đi. Hoặc cho đứa trẻ uống một thứ thuốc tê gọi là ma túy dược, rồi dùng kim chích hoài vào dịch hoàn đứa trẻ khiến cho sinh thực khí không còn công năng nữa. Thông thường, số người bị nhiễm trùng dẫn tới tử vong do tịnh thân trước khi trở thành quan hoạn không phải là ít. Vào đời vua Tuyên Đức thời nhà Minh, khi tiến hành tĩnh thân cho 1.565 nam giới để thành hoạn quan phục vụ trong triều đình, đã có gần 400 người chết ngay sau đó do bị nhiễm trùng hoặc không cầm được máu. Cũng vào những đời vua tiếp theo, rất nhiều trẻ em nam đã không được sống đến ngày trở thành những viên quan trong nội đình như bố mẹ chúng mong muốn. Theo sử sách ghi lại, trung bình có ít nhất 20% số người được tịnh thân đã chết trước khi nhìn thấy lầu son gác tía nơi cung vua, phủ chúa. Do đó, ở những đời hoàng đế sau này, người ta đã bắt người làm tịnh thân cùng gia đình phải cam kết về mạng sống hoặc không kiện cáo nếu cuộc phẫu thuật thất bại. Không những thế, trước khi tiến hành, người có ý định tịnh thân được đặt nằm nghiêng trên một cái giường thấp, sau đó được hỏi lần cuối cùng có hối hận gì với quyết định trở thành hoạn quan hay không. Nếu người đó trả lời không thì một người sẽ giữ chặt bụng người đó, hai người khác banh hai chân ra giữ cho khỏi cục cựa. Nếu gia đình và bản thân người tịnh thân đều đồng ý thì cuộc tịnh thân mới được tiến hành. Băng vải được quấn chặt ở bụng dưới và hai đùi và bệnh nhân được cho uống một thang thuốc mê (ma phế thang), bộ phận sinh dục của y được chà xát bằng nước ngâm ớt. Cả dương vật lẫn dịch hoàn được cắt xoẹt bằng một nhát dao sát tận đáy, một nút bằng kim loại cắm ngay vào lỗ sinh thực khí và vết thương được băng chặt bằng giấy bản, bên ngoài quấn vải thật chặt. Người thái giám lập tức được những “đao tử tượng” dìu đi quanh phòng trong hai, ba giờ liền trước khi được quyền nằm nghỉ. Người đó vừa đau đớn, vừa khát nước nhưng không được ăn uống và tiểu tiện trong ba ngày. Sau thời điểm ba ngày, vải băng được cởi ra. Nếu bệnh nhân có thể đi tiểu được ngay thì vụ giải phẫu thành công, người bị thiến đã qua được thời kỳ nguy hiểm. Còn nếu như người thái giám không tiểu tiện được có nghĩa là đường sinh thực khí đã bị thu hẹp hay bịt kín. Lúc này, người thái giám không may chỉ còn có con đường là nằm chờ chết. Có hai thứ bắt buộc gia đình người tịnh thân phải đem đến cho đao phủ. Thứ nhất là một cái đầu lợn hoặc gà kèm theo rượu. Hai là ba mươi cân gạo, vài chục bắp ngô, vài cân hạt vừng cùng vài tờ giấy to bản. Trong những vật phẩm này, gạo và ngô để những người tịnh thân ăn đủ trong vòng một tháng khi nghỉ ngơi tại chỗ. Vừng được rang lên rồi nghiền nhỏ, trở thành một thứ thuốc giữ ấm cho cơ thể theo bài thuốc cổ xưa. Để biến người con gái bình thường thành nữ thái giám, người ta dùng gậy nhỏ đập vào bụng người phụ nữ để cho dạ con sa xuống, không thể thụ thai, mang thai và sinh đẻ được. Còn giấy to bản sẽ được dùng để bịt kín cửa sổ, tránh gió lùa khi bệnh nhân vẫn phải nằm một chỗ. Còn đối với đao phủ, trước khi tiến hành tịnh thân cho bất kỳ ai, họ đều phải chuẩn bị hai quả mật lợn tươi và một ít cần sa thối. Mật lợn có tác dụng chống sưng viêm, được đao phủ bôi vào vết thương ngoài của người tịnh thân. Còn cần sa thối được cho bệnh nhân uống trước khi tiến hành tịnh thân, có tác dụng như một chất gây mê khiến con người sẽ không cảm thấy đau đớn khi quá trình tịnh thân diễn ra. Khi tiến hành tịnh thân xong, các đao phủ cũng sẽ cho bệnh nhân uống tiếp cần sa thối để giảm thiểu sự bài tiết qua đường sinh dục. Chi phí cho việc tịnh thân đều phải do gia đình của thái giám tương lai chi trả. Tuy nhiên, thường thì những gia đình nguyện tiến con trai vào cung đều là người nghèo. Vì thế nếu không có tiền chi trả ngay cho đao phủ, khoản nợ này sẽ được ghi lại, để đến khi thái giám tương lai vào cung sẽ trả dần. Thêm một điều đặc biệt nữa là tất cả dương vật bị cắt của người tịnh thân đều được đao phủ giữ lại. Những bộ phận này được gọi với cái tên “bảo vật”. Những “bảo vật” này được bảo quản cẩn thận rồi được bán lại cho chủ nhân khi có yêu cầu, thường thì bảo vật sẽ trở về với chủ trước khi các thái giám xuống mồ. Theo các nhà nghiên cứu Trung Quốc cho biết, sở dĩ các quan thái giám muốn lưu lại “bảo vật” của mình do nguyên nhân sau: Một là, khi chết, những quan thái giám muốn được toàn thây để khi đầu thai vào kiếp khác, nếu có trở thành đàn ông họ cũng sẽ vẫn được nguyên vẹn. Hai là, theo truyền thống của người Trung Quốc, việc cắt đi một phần thân thể do cha mẹ sinh ra sẽ mang tội bất hiếu. Bởi vậy, để tỏ lòng thành kính và hiếu nghĩa với cha mẹ, khi chết, những vị thái giám cũng không muốn thân thể mình thiếu bất cứ bộ phận nào. Cứ như vậy, cùng với triều dài của thời đại phong kiến Trung Quốc, thủ thuật tịnh thân để trở thành quan thái giám trong triều đình Trung Hoa cũng đã có lịch sử hàng nghìn năm. Năm 1996, thái giám Tôn Diệu Đình, vị hoạn quan cuối cùng của triều đại phong kiến Trung Hoa đã qua đời, đặt dấu chấm hết cho hiện tượng hoạn quan của Trung Quốc. Vốn chỉ là quan trong nội đình, không có quyền can dự chính sự, nhưng là người hầu cận thường ngày gần nhất của hoàng đế, được hoàng đế tin dùng, nên có khả năng lộng quyền, nắm được đại quyền chính trị, thậm chí có thể phế lập hoàng đế. Dưới các triều Đông Hán, Đường, Minh, Thanh đều từng xảy ra những việc hoạn quan chuyên quyền làm bậy. Được xem là cuộc sống có thể một bước lên ngôi cao quyền lực nhưng thực sự cuộc sống của những người hoạn quan phải trải qua rất nhiều những đau khổ, bất hạnh. Một hoạn quan đã miêu tả lại những ngày tháng được cho là cực hình nhất của ông, trước khi trở thành người giúp việc cho hoàng đế Quang Tự - vị vua cuối cùng của triều đại phong kiến Trung Quốc: “Đi được là một điều may mắn, bởi vì có những người đã không thể đứng lên để bước đi sau lần phẫu thuật tàn khốc đó. Họ đã chết do không thể tiểu tiện được sau ba ngày hoặc do bị nhiễm trùng quá nặng. Đó là những tháng ngày đau đớn và bi thảm nhất trong cuộc đời tôi… Khi bước những bước chân đầu tiên của cuộc đời quan hoạn, sự đau đớn như từng vết dao cứa vào thân thể và xuyên lên tận óc. Mồ hôi cùng với nước mắt đã hòa vào nhau và ướt đẫm trên đôi chân…”. Và nỗi đau của những nữ thái giám Mặc dù, nam thái giám là lực lượng chủ yếu và rất có thế lực, thậm chí các thái giám như An Đức Hải, Lý Liên Anh đã làm loạn cả hậu cung nhà Thanh, nhưng việc sử dụng nữ thái giám để quản lý hậu cung vẫn là một cách lựa chọn được coi là sáng suốt của các hoàng đế. Vì vậy, bên cạnh các nam hoạn quan như truyền thống, trong một số triều vua, người ta thấy xuất hiện cả các nữ thái giám. Nếu như các nam thái giám phải chịu tịnh thân, tức là phải chịu đau đớn để cắt bỏ sinh thực khí trước khi vào cung, thì đối với các nữ thái giám, việc tác động làm họ trở thành một phụ nữ không hoàn chỉnh có vẻ phức tạp hơn nhiều. Đã có nhiều giả thuyết về giải pháp “hoạn” con gái thành những nữ thái giám được đưa ra như khâu hẹp hay làm biến dạng sinh thực khí... Song giả thuyết có vẻ hợp lý nhất là giả thuyết đã được nhà văn Lỗ Tấn gọi là “u bế” trong tác phẩm “Bệnh hậu tạp đàm”. Đây là một biện pháp rất tàn bạo: người ta dùng gậy nhỏ đập vào bụng người phụ nữ để cho dạ con sa xuống, không thể thụ thai, mang thai và sinh đẻ được. Trong xã hội phong kiến xưa kia, nhất là ở Trung Quốc - một xã hội nổi tiếng về trọng nam khinh nữ, thì việc phụ nữ làm quan rất hiếm. Việc trong hậu cung xuất hiện những nữ thái giám, rõ ràng là xuất phát từ việc các hoàng đế đề phòng những nam thái giám ở cạnh họ mà thôi. Nếu không thì đâu đến lượt phụ nữ được vào cung làm quan. Hình ảnh trong cung cấm Trung Hoa Nữ quan tức nữ thái giám theo cách gọi của dân gian đã có từ rất sớm. Đời Hán có tài nữ Ban Chiêu nổi tiếng, đến đời Tống thì có nữ Tiến sỹ Lâm Diệu Ngọc, đời Đường có nữ Hiệu thư Tiết Đào, đời Minh có “Nữ năng nhân” Vạn Quý Nhi. Họ đều là các nữ quan trong cung và đều là các nữ thái giám. Lịch sử của nữ quan ở Trung Quốc có từ rất lâu. Trong quy định về chế độ quan chức đời Chu cách đây 3.000 năm đã thấy ghi về nữ quan. Trong sách “Chu lễ Thiên quan” có mục “Nữ lại” trong đó ghi rõ: Nữ lại là chức lễ chủ quản vương hậu, nắm nội trị, nội chính trong cung. Nhà Chu đặt ra tám chức nữ quan. Đời Hán có các nữ quan: Ngự trưởng, Cung trưởng, Trung cung học sự lại. Đến đời Đường hoàn thiện hơn, có tới sáu nữ Thượng quan, bao gồm: Thượng cung, Thượng nghi, Thượng phục, Thượng thực, Thượng tẩm, Thượng công, ngoài ra còn có Tư ký, Điển ký, Chưởng ký... tổng cộng có tới 200 nữ quan. Đến đời Tống có Tư quan lệnh, 6 Thượng thư, 24 tư chính, châu lại... Sang triều Minh thì chế độ nữ quan còn hoàn thiện hơn cả đời Đường. Nữ quan hoàn toàn khác với các cung phi. Diện mạo, sắc đẹp không phải là thứ chủ yếu ở họ, họ vào cung không phải để làm phi tần cho hoàng đế, ban đầu cũng không có quan hệ tình dục với hoàng đế. Như thời Minh, nhiều nữ quan khi được vào cung tuổi đã khoảng 30 đến 40, đều sống độc thân. Nhiệm vụ của nữ quan cũng rất tạp nham: người thì nắm văn ấn, chuyên ghi chép việc ăn ngủ nghỉ của hoàng đế theo giờ giấc, kể cả việc “lâm hạnh” với ai, tình hình thụ thai của phi tần. Có người phụ trách việc dọn dẹp vệ sinh. Có người lại chuyên phụ trách việc truyền thụ kỹ xảo giường chiếu cho hoàng đế, tiến hành dạy dỗ chuyện phòng the bằng cách tự lấy mình để dẫn dắt cho các hoàng thái tử. Dĩ nhiên, khi các hoàng thái tử nổi hứng thì các nữ quan có thể trở thành công cụ tình dục cho họ, có người thậm chí trở thành hoàng phi... Một số nữ quan còn đóng vai trò quản lý đời sống tình dục trong cung. Tuy thế lực không mạnh như hoạn quan, nhưng một khi nữ quan và hoạn quan cấu kết với nhau thì lại có ảnh hưởng rất lớn, thậm chí gây nên họa trong cung. Đời Minh, công chúa sau khi lấy chồng phải vào ở tại Thập vương phủ trong cung. Khi đó, hoàng đế cử đến cho con gái một nữ quan già luôn ở bên cạnh để hầu hạ. Nữ quan này gọi là “quản gia bà”, có quyền quản lý khá lớn. Phò mã ở ngoài cung muốn vào vui vầy với vợ là công chúa ở trong cung, luôn phải đối mặt với một vật cản lớn là “quản gia bà”, phải hối lộ cho bà ta nhiều tiền bạc mới được vào, vì nếu không có lời truyền cho phép ra ngoài cổng thì phò mã không thể vào với vợ được. Vì thế đã xảy ra nhiều chuyện bất hạnh. Người chồng của công chúa em gái hoàng đế Minh Thần Tôn, do hối lộ không đáp ứng yêu cầu của “quản gia bà” nên không được bà ta cho vào với vợ, kết cục mắc chứng suy nhược thần kinh mà chết khiến công chúa phải ở góa cả đời. Một lần, công chúa yêu của Minh Thần Tôn cho gọi phò mã vào cung nhưng khi đó viên nữ quan quản lý lại đang mải uống rượu vui thú với tay hoạn quan mà bà ta đem lòng yêu. Đợi mãi không thấy nữ quan truyền đạt cho vào, phò mã cứ vào với vợ. Sau đó, khi biết chuyện, nữ quan rất tức giận, bèn giả cớ say rượu, lôi phò mã khỏi giường và đuổi cổ ra ngoài cung rồi mắng mỏ công chúa một hồi. Công chúa rất tức, định sáng hôm sau sẽ bẩm báo với cha mẹ, nhưng không ngờ nữ quan lại cáo hơn, “kẻ ác đi cáo giác trước”. Bởi vậy, khi công chúa mới gặp mẹ chưa kịp mở miệng đã bị bà chửi cho một trận. Phò mã sau khi bị đuổi khỏi cung, định vào để thanh minh với nhạc phụ, nhạc mẫu, nào ngờ tay hoạn quan “bồ” của nữ quan đã cử người đợi sẵn đánh cho một trận tơi tả. Vụ việc được làm to chuyện, phò mã bị buộc tội vô lễ, bắt đi học lại lễ nghi phép tắc và phạt ba tháng không được vào cung với vợ. Bà nữ quan được điều đi giữ chức khác, còn gã hoạn quan thì chẳng hề hấn gì. Còn có một loại nữ quan khác trong cung là những nữ y, gọi là “y bà”. Trong cung cũng có các quan ngự y nam, nhưng họ chỉ khám bệnh cho cánh đàn ông là chính, khi khám bệnh cho phụ nữ họ phải khám gián tiếp. Vì vậy, các nữ lang y được tuyển chọn vào cung để khám bệnh, điều trị cho hoàng hậu, phi tần và các công chúa... Nhìn chung, những nữ y được tuyển chọn vào cung đều có tố chất cao, thái độ làm việc nghiêm túc. Họ dùng y thuật của mình để giúp điều trị những chứng bệnh khó nói cho cánh phụ nữ trong cung, giúp họ kìm nén, chế áp tình dục, có khi lại giúp tăng cường dục tính, dưỡng thai, thậm chí phá thai. Tuy nhiên, xét trong sử sách Trung Quốc thì không thấy có ghi chép chuyện nữ y can thiệp chuyện chính trị cung đình hay gây nên đại loạn. Theo nguoiduatin.vn
Bình luận
Chưa có phản hồi
Bạn phải đăng nhập mới có thể bình luận
ADS_home_content_3
Trái
Phải
  • Sale
    Sale
LR_left_1
LR_right_1
Tin Ảnh

DV Văn Anh khoe giấy đăng ký kết hôn

Hai diễn viên Văn Anh và Tú Vi chính thức là vợ chồng.
Code_FB
 
 
ADS_681x
Trình độ học vấn của tôi là:
336x288
681x90
Quảng cáo