Billboard
- google.com, pub-4530016804051003, DIRECT, f08c47fec0942fa0
Tiêu điểm
-
Táo bón có thể là bé rối loạn thần kinh, cáu kính, lười ăn, mất tập trung...
-
Gọi “chức năng” là vì triệu chứng thì có thật nhưng không phải là bệnh.
-
Nhãn hàng GELOPECTOSE® tặng phiếu tư vấn khám bệnh miễn phí cho bé.
-
Bé 1-2 tuổi rất thích ném đồ vào bồn cầu...
-
Không để ý đến cân nặng của bé, không hiểu các thành phần chính của thuốc là ...
-
Bé bị nôn mửa thường xuyên, tiêu chảy, vừa tiêm phòng đều không nên tắm.
-
Khi mẹ trang điểm đậm thì tránh gần con...
-
Thổi bong bóng, cho bé xem vòi nước chảy hay cho bé xem gương... sẽ khiến bé ...
-
Cho bé dùng gối quá sớm có thể là nguyên nhân gây nên chứng đột tử và làm hỏng ...
Viêm tiểu phế quản ở bé
08:31:50 30/09/2011
Viêm tiểu phế quản là bệnh hay gặp ở bé, nhất là 3-6 tháng tuổi. Khi mắc bệnh, các phế quản nhỏ này bị viêm (sưng phù, tiết nhiều dịch) làm cho đường thở của bé bị chít hẹp, thậm chí tắc nghẽn.
Các bậc cha mẹ không được chủ quan khi thấy bé có những dấu hiệu như ho, chảy nước mũi trong, sốt vừa hoặc cao. Sau 3-5 ngày thì bé ho ngày một nhiều, xuất hiện thở khó, thở rít. Những trường hợp nặng thì tím tái, thậm chí ngừng thở.
Những bé đến viện khi thăm khám thường thấy nhịp thở của bé nhanh, sốt vừa, xuất hiện các cơn co kéo cơ hô hấp, lồng ngực bị rút lõm, bé thở rên. Tiếng thở có thể nghe ran rít, ran ngáy, thông khí phổi kém. Sau đó, bé ho nhiều hơn kèm khò khè và có thể bị khó thở (thở nhanh hơn, thở co kéo lồng ngực). Nặng hơn nữa bé có thể bỏ bú, tím tái. Bệnh có triệu chứng tương tự hen suyễn. Thông thường, bé sẽ khò khè kéo dài khoảng 7 ngày, ho giảm dần trong khoảng 14 ngày rồi khỏi hẳn nếu được chăm sóc tốt. Tuy nhiên, trong khoảng 1/5 trường hợp, bệnh có thể kéo dài nhiều tuần lễ.
Biến chứng thường gặp của bệnh là suy hô hấp, viêm phổi (do dễ bị bội nhiễm), xẹp phổi, viêm tai giữa. Cần lưu ý là bệnh có thể sẽ nặng hơn (kéo dài hơn, nhiều biến chứng hơn) và tử vong cũng cao hơn trong các trường hợp sau: bé dưới 3 tháng tuổi; bé sinh non, nhẹ cân; bé suy dinh dưỡng nặng; bé có sẵn bệnh tim, phổi, suy giảm miễn dịch. Đây là những bé có yếu tố nguy cơ cần được cho nhập viện sớm khi bị viêm tiểu phế quản. Ngoài ra, bệnh cũng dễ tái phát.
Tác nhân làm cho bé bị viêm tiểu phế quản thường là do các virus, đứng hàng đầu là virus hợp bào hô hấp, chiếm 30- 50% các trường hợp mắc bệnh. Virus này có 2 điểm đặc biệt: có khả năng lây lan rất mạnh nên bệnh có khả năng xảy ra thành dịch; người lớn, bé lớn cũng có thể bị nhiễm nhưng biểu hiện thường nhẹ, chỉ như cảm ho thông thường. Nhưng nếu bé dưới 2 tuổi bị lây nhiễm có thể biểu hiện dưới dạng nặng là viêm tiểu phế quản.
Virus cúm và á cúm cũng gây bệnh cho khoảng 25% số bé bị viêm tiểu phế quản. Ngoài ra phải kể đến Adenovirus với 10% số mắc.
Nếu bé sống trong vùng có dịch cúm hay viêm đường hô hấp trên (do virus hợp bào) thì tỷ lệ bị lây nhiễm rất cao do sức đề kháng ở cơ thể bé còn quá yếu, nhất là bé tuổi bú mẹ mà không được bú đầy đủ sữa mẹ. Những bé từng bị ốm do nhiễm virus trước đó (như viêm mũi họng, viêm amidan, viêm VA...) đều có nguy cơ dễ nhiễm bệnh nếu không được chăm sóc tốt. Các trường hợp bé bị bệnh tim bẩm sinh (sống trong môi trường hút thuốc lá thụ động, bị bệnh phổi bẩm sinh hay bị suy giảm miễn dịch) đều có nguy cơ cao mắc phải viêm tiểu phế quản.
Người ta cũng đề cập đến mối liên quan của viêm tiểu phế quản với bệnh hen. Sau khi bị viêm tiểu phế quản, đường thở của bé sẽ trở nên nhạy cảm hơn và khoảng 1/3 bé bị viêm tiểu phế quản có thể diễn tiến thành hen sau này.
Chăm sóc bé
Nếu bé có dấu hiệu bệnh nhẹ (không có biến chứng, không có yếu tố nguy cơ) thì có thể được chăm sóc tại nhà. Tiếp tục cho bé bú hay ăn uống đầy đủ. Cần cho bé uống nhiều nước để tránh thiếu nước. Cần làm thông thoáng mũi cho bé để giúp bé dễ thở hơn và bú tốt hơn. Có thể nhỏ mũi với 2-3 giọt nước muối sinh lý, sau đó làm sạch mũi cho bé. Cho bé dùng thuốc đúng như chỉ dẫn của thầy thuốc. Tránh khói thuốc lá vì có thể làm bệnh của bé nặng hơn và dễ bị hen sau này. Cần đi tái khám đúng hẹn của bác sĩ.
Khi bé có dấu hiệu nặng như khó thở (bú kém, tím tái, có biến chứng) cần cho bé nhập viện để điều trị. Đối với các thể thông thường (không có suy hô hấp) thì ngay khi vào viện, các bác sĩ sẽ tiến hành hút thông đường thở, giải phóng các chất xuất tiết. Dùng khí dung ẩm thuốc giãn phế quản có tác dụng nhanh (như ventolin, bricanyl, salbutamol). Kết hợp với lý liệu pháp hô hấp, vỗ rung, hút đờm.
Những bé sốt cao (nôn, thở nhanh) phải dù đủ dịch và điện giải theo nhu cầu cơ thể bé. Cần cho bé dinh dưỡng đủ chất, và cân nhắc cẩn thận trước khi sử dụng kháng sinh.
Đối với những trường hợp nặng (có suy hô hấp) thì phải sử dụng liệu pháp oxygen, hút thông đường hô hấp trên, dùng thuốc giãn phế quản đường khí dung ẩm, truyền nước, điện giải theo nhu cầu cơ thể bù lượng thiếu hụt.
Nếu những biện pháp trên không cải thiện tình trạng suy hô hấp thì phải tiến hành đặt nội khí quản và các biện pháp hô hấp hỗ trợ khác. Chỉ sử dụng kháng sinh khi có biểu hiện viêm nhiễm thứ phát, không nên dùng steriod cho bé.
Nhiều khuyến cáo nhấn mạnh, để phòng ngừa bệnh cho bé, các mẹ hãy cho bé bú mẹ đến 2 tuổi, không để bé bị lạnh, giữ cho môi trường sống của bé được trong lành. Những bé bị các bệnh tim, phổi bẩm sinh càng đặc biệt lưu ý vì bé dễ mắc bệnh và tiến triển xấu.
Các bậc cha mẹ không được chủ quan khi thấy bé có những dấu hiệu như ho, chảy nước mũi trong, sốt vừa hoặc cao. Sau 3-5 ngày thì bé ho ngày một nhiều, xuất hiện thở khó, thở rít. Những trường hợp nặng thì tím tái, thậm chí ngừng thở.
Những bé đến viện khi thăm khám thường thấy nhịp thở của bé nhanh, sốt vừa, xuất hiện các cơn co kéo cơ hô hấp, lồng ngực bị rút lõm, bé thở rên. Tiếng thở có thể nghe ran rít, ran ngáy, thông khí phổi kém. Sau đó, bé ho nhiều hơn kèm khò khè và có thể bị khó thở (thở nhanh hơn, thở co kéo lồng ngực). Nặng hơn nữa bé có thể bỏ bú, tím tái. Bệnh có triệu chứng tương tự hen suyễn. Thông thường, bé sẽ khò khè kéo dài khoảng 7 ngày, ho giảm dần trong khoảng 14 ngày rồi khỏi hẳn nếu được chăm sóc tốt. Tuy nhiên, trong khoảng 1/5 trường hợp, bệnh có thể kéo dài nhiều tuần lễ.
Biến chứng thường gặp của bệnh là suy hô hấp, viêm phổi (do dễ bị bội nhiễm), xẹp phổi, viêm tai giữa. Cần lưu ý là bệnh có thể sẽ nặng hơn (kéo dài hơn, nhiều biến chứng hơn) và tử vong cũng cao hơn trong các trường hợp sau: bé dưới 3 tháng tuổi; bé sinh non, nhẹ cân; bé suy dinh dưỡng nặng; bé có sẵn bệnh tim, phổi, suy giảm miễn dịch. Đây là những bé có yếu tố nguy cơ cần được cho nhập viện sớm khi bị viêm tiểu phế quản. Ngoài ra, bệnh cũng dễ tái phát.
Những thủ phạm gây bệnh
Tác nhân làm cho bé bị viêm tiểu phế quản thường là do các virus, đứng hàng đầu là virus hợp bào hô hấp, chiếm 30- 50% các trường hợp mắc bệnh. Virus này có 2 điểm đặc biệt: có khả năng lây lan rất mạnh nên bệnh có khả năng xảy ra thành dịch; người lớn, bé lớn cũng có thể bị nhiễm nhưng biểu hiện thường nhẹ, chỉ như cảm ho thông thường. Nhưng nếu bé dưới 2 tuổi bị lây nhiễm có thể biểu hiện dưới dạng nặng là viêm tiểu phế quản.
Virus cúm và á cúm cũng gây bệnh cho khoảng 25% số bé bị viêm tiểu phế quản. Ngoài ra phải kể đến Adenovirus với 10% số mắc.
Nếu bé sống trong vùng có dịch cúm hay viêm đường hô hấp trên (do virus hợp bào) thì tỷ lệ bị lây nhiễm rất cao do sức đề kháng ở cơ thể bé còn quá yếu, nhất là bé tuổi bú mẹ mà không được bú đầy đủ sữa mẹ. Những bé từng bị ốm do nhiễm virus trước đó (như viêm mũi họng, viêm amidan, viêm VA...) đều có nguy cơ dễ nhiễm bệnh nếu không được chăm sóc tốt. Các trường hợp bé bị bệnh tim bẩm sinh (sống trong môi trường hút thuốc lá thụ động, bị bệnh phổi bẩm sinh hay bị suy giảm miễn dịch) đều có nguy cơ cao mắc phải viêm tiểu phế quản.
Người ta cũng đề cập đến mối liên quan của viêm tiểu phế quản với bệnh hen. Sau khi bị viêm tiểu phế quản, đường thở của bé sẽ trở nên nhạy cảm hơn và khoảng 1/3 bé bị viêm tiểu phế quản có thể diễn tiến thành hen sau này.
Chăm sóc bé
Nếu bé có dấu hiệu bệnh nhẹ (không có biến chứng, không có yếu tố nguy cơ) thì có thể được chăm sóc tại nhà. Tiếp tục cho bé bú hay ăn uống đầy đủ. Cần cho bé uống nhiều nước để tránh thiếu nước. Cần làm thông thoáng mũi cho bé để giúp bé dễ thở hơn và bú tốt hơn. Có thể nhỏ mũi với 2-3 giọt nước muối sinh lý, sau đó làm sạch mũi cho bé. Cho bé dùng thuốc đúng như chỉ dẫn của thầy thuốc. Tránh khói thuốc lá vì có thể làm bệnh của bé nặng hơn và dễ bị hen sau này. Cần đi tái khám đúng hẹn của bác sĩ.
Khi bé có dấu hiệu nặng như khó thở (bú kém, tím tái, có biến chứng) cần cho bé nhập viện để điều trị. Đối với các thể thông thường (không có suy hô hấp) thì ngay khi vào viện, các bác sĩ sẽ tiến hành hút thông đường thở, giải phóng các chất xuất tiết. Dùng khí dung ẩm thuốc giãn phế quản có tác dụng nhanh (như ventolin, bricanyl, salbutamol). Kết hợp với lý liệu pháp hô hấp, vỗ rung, hút đờm.
Những bé sốt cao (nôn, thở nhanh) phải dù đủ dịch và điện giải theo nhu cầu cơ thể bé. Cần cho bé dinh dưỡng đủ chất, và cân nhắc cẩn thận trước khi sử dụng kháng sinh.
Đối với những trường hợp nặng (có suy hô hấp) thì phải sử dụng liệu pháp oxygen, hút thông đường hô hấp trên, dùng thuốc giãn phế quản đường khí dung ẩm, truyền nước, điện giải theo nhu cầu cơ thể bù lượng thiếu hụt.
Nếu những biện pháp trên không cải thiện tình trạng suy hô hấp thì phải tiến hành đặt nội khí quản và các biện pháp hô hấp hỗ trợ khác. Chỉ sử dụng kháng sinh khi có biểu hiện viêm nhiễm thứ phát, không nên dùng steriod cho bé.
Nhiều khuyến cáo nhấn mạnh, để phòng ngừa bệnh cho bé, các mẹ hãy cho bé bú mẹ đến 2 tuổi, không để bé bị lạnh, giữ cho môi trường sống của bé được trong lành. Những bé bị các bệnh tim, phổi bẩm sinh càng đặc biệt lưu ý vì bé dễ mắc bệnh và tiến triển xấu.
BS. Nguyễn Tiến Dũng (Đại học Y Hà Nội)
Theo Sức Khỏe & Đời Sống
Tin liên quan
- Chăm sóc bé chàm thể tạng (09:59:00 29/09/2011)
- Bé bị viêm vi cầu thận cấp (11:46:00 28/09/2011)
- Bé 3 tuổi bị dừa rơi vào đầu (09:09:00 27/09/2011)
- Bé nhập viện vì sặc hạt lạc, hạt dưa (17:06:00 25/09/2011)
- Biểu hiện điển hình của tự kỷ (10:16:00 23/09/2011)
Bình luận
Chưa có phản hồi
Bạn phải đăng nhập mới có thể bình luận
Viêm tiểu phế quản ở bé
ADS_home_content_3
Code_FB ADS_681x |
Video 336x288 |
Quảng cáo